Outline
Abstract
Background: Vietnam is one of the fastest-aging countries in Asia. Vietnamese elderly persons are bearing ‘double health burdens’, in which disease patterns are shifting from communicable to non-communicable diseases and chronic illnesses. The demand for healthcare services among the elderly is very high. However, the elderly’s ability to access and use health services is still limited. Objectives: To describe the current status of using healthcare services by elderly people and identify some factors related to elderly people’s ability to use healthcare services in Phu Luong district, Thai Nguyen province in 2021. Methods: A cross-sectional study was conducted on 400 elderly people. The data was collected by direct personal interview. Results: One month prior to the survey, the prevalence of sick people was 64%. The percentage of elderly people who visited medical facilities for treatment was 62.1%, and the remained one was self-treatment. 95.6% of elderly
people chose public medical facilities for examination and treatment. There were many reasons for choosing a medical facility for treatment when the elderly got sick such as reasonable fees (89.3%), close distance from home (86.8%), good qualification of medical staff (76.1%), good attitude of medical staff (67.9%), good infrastructure (57.2%), no waiting time (49.1%), and family members’ choice. Some factors related to the utilization of healthcare services among the elderly people included age, gender, the source of income, health insurance status, distance from home to the medical facility, and living status. Conclusions: The proportion of elderly people using healthcare services when they were sick still low. To improve this rate¸ more attention should be given to the elderly, improving the role of the elderly, creating stable income, improving health insurance coverage, and giving more attention to the elderly living alone. When these factors are improved, it will be more convenient for the elderly to access and use healthcare services.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Quá trình già hoá dân số đang diễn ra mạnh mẽ và nhanh chóng tại Việt Nam, theo kết quả của tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019 thì tổng thời gian dân số Việt Nam già hóa nhanh so với mức chung của thế giới là khoảng 96 năm5. Tuổi thọ trung bình của người Việt Nam đã tăng lên 73,6 tuổi (2019) ngược về năm 1999, con số này là 68,6 tuổi. Kết quả này cho thấy thành tựu trong chăm sóc sức khoẻ nhân dân và sự phát triển kinh tế-xã hội đã góp phần làm tăng tuổi thọ trung bình của người Việt. Tuy tuổi thọ trung bình tăng, nhưng số năm sống khoẻ mạnh của dân số lại thấp. Phụ nữ có trung bình 11 năm sống trong bệnh tật, trong khi ở nam giới khoảng 8 năm. Ðiều tra quốc gia về người cao tuổi (NCT) Việt Nam năm 2011 cho thấy hơn 60% số NCT cho biết tình trạng sức khỏe là yếu hoặc rất yếu cần chăm sóc. Thực tế, NCT phải đối mặt với nhiều bệnh mạn tính do suy giảm chức năng của nhiều cơ quan, tổ chức. Theo nguồn từ Bộ Y tế và nhóm đối tác y tế (2018) dự báo thì số lượng NCT có nhu cầu chăm sóc ngày càng tăng cao, đến năm 2049 sẽ có khoảng 10 triệu NCT (trong tổng số khoảng 27 triệu NCT- tương đương gần 40%) có nhu cầu được chăm sóc. Tuy nhiên, một vấn đề đó là nhiều NCT có nhu cầu chăm sóc nhưng chưa được đáp ứng hoặc không đáp ứng được như mong muốn, nhất là nhu cầu về việc sử dụng dịch vụ y tế. Nhóm dân số NCT là nhóm có tỷ lệ bệnh tật cao và dễ bị tổn thương nhất và cùng với đó là nhu cầu sử dụng dịch vụ y tế cũng cao hơn những nhóm khác. Theo các nghiên cứu trong nước và quốc tế cho thấy có rất nhiều yếu tố liên quan đến việc sử dụng dịch vụ y tế của NCT có thể kể đến đó là các yếu tố nhân khẩu học (tuổi, giới, dân tộc, khu vực sống, thu nhập…) và các yếu tố khác như: khoảng cách tới cơ sở y tế, tình trạng bảo hiểm y tế, tình trạng bệnh… đều ảnh hưởng đến việc sử dụng dịch vụ y tế của người cao tuổi1,6,8. Phú Lương là huyện miền núi, hầu hết NCT sống cùng con cháu, tỷ lệ NCT có lương hưu hay thu nhập ổn định chiếm tỷ lệ thấp, đời sống vật chất còn gặp nhiều khó khăn, đồng thời cũng đối diện với gánh nặng “bệnh tật kép”, do đó nhu cầu chăm sóc sức khoẻ và sử dụng dịch vụ y tế cao. Vậy thực trạng sử dụng dịch vụ y tế của NCT ở Phú Lương hiện nay như thế nào? Yếu tố nào liên quan đến việc sử dụng dịch vụ y tế của NCT hiện nay? Để trả lời cho câu hỏi đó chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu này với mong muốn kết quả nghiên cứu sẽ làm minh chứng cho việc cải thiện tình trạng tiếp cận và sử dụng dịch vụ y tế của NCT, góp phần nâng cao sức khoẻ NCT.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng: Người cao tuổi (≥ 60 tuổi) tại một số xã miền núi, huyện Phú Lương, Thái Nguyên.
Tiêu chuẩn lựa chọn: Người từ 60 tuổi trở lên, có hộ khẩu thường trú tại xã nghiên cứu; Có đầy đủ năng lực hành vi, không bị liệt hoặc có vấn đề về sức khoẻ tâm thần.
Tiêu chuẩn loại trừ: Người dưới 60 tuổi, không có hộ khẩu thường trú tại xã nghiên cứu; Không đủ năng lực hành vi, đang bị liệt hoặc có vấn đề về sức khoẻ tâm thần.
Thời gian và địa điểm nghiên cứu: Từ tháng 04/2021 – tháng 04/2022 tại các xã: Động Đạt, Phủ Lý, Ôn Lương, Hợp Thành, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên.
Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu: nghiên cứu mô tả, thiết kế cắt ngang
Cỡ mẫu:
Trong đó
Với α = 0,05, d = 0,05, p = 0,54 (Tỷ lệ NCT có nhu cầu sử dụng dịch vụ y tế theo nghiên cứu của Phạm Phương Liên năm 2015).
Thay vào công thức tính cỡ mẫu: Ta tính được cỡ mẫu tối thiểu cho nghiên cứu là 381 người. Điều tra thực tế 400 NCT.
Chọn mẫu: Chọn có chủ đích 4 xã thuộc huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên. Mỗi xã lập danh sách chọn ngẫu nhiên 100 NCT.
Chỉ số và biến số nghiên cứu
Nhóm biến số nhân khẩu học: Tuổi, giới, dân tộc, trình độ học vấn, tình trạng kinh tế, tình trạng hôn nhân, khoảng cách từ nhà đến cơ sở y tế, tình trạng bảo hiểm y tế, tình trạng sống chung/sống riêng với con cái.
Tỷ lệ NCT có bệnh trong tháng qua. Tỷ lệ NCT sử dụng dịch vụ y tế.
Tỷ lệ lựa chọn các địa điểm sử dụng dịch vụ y tế của NCT. Các yếu tố liên quan đến việc sử dụng dịch vụ y tế của NCT.
Thu thập và xử lý số liệu: Số liệu sẽ được thu thập thông qua phỏng vấn trực tiếp theo bộ câu hỏi có cấu trúc được thiết kế sẵn. Sau đó làm sạch và nhập liệu, xử lý thống kê trên phần mềm SPSS 22.
Đạo đức nghiên cứu: Nghiên cứu đã được hội đồng đạo đức của Trường Đại học Y – Dược, Đại học Thái Nguyên thông qua trước khi tiến hành nghiên cứu theo quy trình rút gọn.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Thông tin về đối tượng nghiên cứu
Bảng 1. Thông tin chung của NCT tham gia nghiên cứu
Kết quả Bảng 1 cho thấy: Tỷ lệ NCT nữ tham gia nghiên cứu chiếm tỷ lệ cao hơn nam đôi chút (56,8%). Nhóm tuổi có tỷ lệ cao nhất là 70 tuổi- 79 tuổi (45,7%). Phân bố dân tộc: dân tộc Tày chiếm 43,3%, Kinh, Nùng lần lượt là 34,5% và 18,7%. Mô hình sống chung với con cháu phổ biến với 72,8%. Trình độ học vấn chủ yếu là trung học cơ sở và thấp hơn (trên 80%). Tỷ lệ nghèo cận nghèo chiếm 14%. Nguồn thu nhập chính của NCT do con cái hỗ trợ và còn lao động tự túc chiếm tỷ lệ gần tương đương trên 30%, có lương hưu 25,5%. Tỷ lệ có bảo hiểm y tế chiếm 86,8% người cao tuổi.
Thực trạng sử dụng dịch vụ y tế của người cao tuổi
Bảng 2. Tình hình sức khoẻ và hành vi khám sức khoẻ định kỳ
Kết quả Bảng 2 cho thấy: Tỷ lệ NCT có bệnh mãn tính tương đối cao 51,3%. Những bệnh mãn tính thường gặp: bệnh xương khớp (48,3%), tăng huyết áp (43%), rối loạn tiền đình (34,5%), đái tháo đường (19,5%) và COPD (16,8%). Trong vòng một tháng trước thời điểm điều tra NCT có bệnh, triệu chứng bệnh chiếm tỷ lệ khá cao 64%, chủ yếu là viêm họng (58,8%), tăng huyết áp (52%), đái tháo đường (11,3%), đặc biệt có 19 người cao tuổi mắc COVID-19 và một tỷ lệ nhỏ các bệnh/triệu chứng khác. Hành vi khám sức khoẻ định kỳ 3-6 tháng 1 lần của NCT chiếm tỷ lệ khiêm tốn khoảng 17,3%.
Bảng 3. Địa điểm khám chữa bệnh và lý do lựa chọn địa điểm khám chữa bệnh
Nội dung | n | % | |
Khám chữa bệnh khi bị ốm | Không khám chữa, hoặc tự điều trị | 97 | 37,9 |
Khám chữa tại cơ sở y tế | 159 | 62,1 | |
TYT xã | 84 | 52,8 | |
Địa điểm khám chữa bệnh (n=159) | BVĐK Huyện | 37 | 23,3 |
BVĐK tuyến tỉnh | 10 | 6,3 | |
BV Trung ương | 21 | 13,2 | |
PK, BV tư | 7 | 4,4 | |
Nơi đăng ký KCB ban đầu | 98 | 61,6 | |
Chi phí chấp nhận được | 142 | 89,3 | |
Gần nhà | 138 | 86,8 | |
Lý do lựa chọn địa điểm khám chữa bệnh đó (n=159) | Con cháu lựa chọn | 115 | 72,3 |
Không phải chờ đợi | 78 | 49,1 | |
CBYT chuyên môn tốt | 121 | 76,1 | |
Thái độ nhiệt tình | 108 | 67,9 | |
Cơ sở vật chất tốt | 91 | 57,2 | |
Lý do không khám, điều trị (n=97) | Thấy không nghiêm trọng/không cần thiết | 97 | 100 |
Xa cơ sở y tế | 15 | 15,5 | |
Không có người đưa đi | 38 | 39,2 |
Chi phí cao | 49 | 50,5 | |
Không có BHYT | 25 | 25,8 | |
Tự mua thuốc chữa được | 72 | 74,2 |
Kết quả Bảng 3 cho thấy: Trong số NCT có bệnh/triệu chứng ốm đau trong một tháng trước thời điểm nghiên cứu thì tỷ lệ NCT đi khám chữa bệnh tại cơ sở y tế là 62,1%, vẫn còn tới 37,9% NCT không đi khám chữa bệnh mà tự điều trị. NCT chủ yếu lựa chọn khám ở cơ sở y tế công, phổ biến nhất là khám tại trạm y tế xã (52,8), sau đó là bệnh viện tuyến huyện với 23,3%, một tỷ lệ rất nhỏ chọn khám chữa bệnh tại cơ sở y tế tư nhân 4,7%.
Bảng 4. Loại hình dịch vụ y tế mà NCT sử dụng và sự hài lòng đối với cơ sở y tế
Nội dung | n | % | |
Loại hình khám chữa bệnh (n=159) | Khám, điều trị ngoại trú | 143 | 89,9 |
Điều trị nội trú | 16 | 10,1 | |
Hài lòng với cơ sở y tế | Hài lòng | 129 | 81,1 |
Chưa thực sự hài lòng | 30 | 18,9 | |
Cơ sở vật chất chưa tốt | 11 | 36,7 | |
Chất lượng khám chữa bệnh hạn chế | 8 | 26,7 | |
Lý do chưa hài lòng (n=30) | Chi phí cao | 19 | 63,3 |
Thuốc trong bảo hiểm không đủ | 29 | 96,7 | |
Thái độ phục vụ chưa tốt | 5 | 16,7 | |
Phải chờ đợi lâu | 25 | 83,3 |
Kết quả Bảng 4 cho thấy: Một số ít NCT phải điều trị nội trú (10,9%), còn phần lớn là điều trị ngoại trú (89,9%). Trên 80% NCT hài lòng với dịch vụ y tế mà mình được cung cấp, còn một phần chưa thực sự hài lòng. Lý do khiến NCT chưa hài lòng phổ biến nhất là việc thuốc trong bảo hiểm nghèo nàn (96,7%), thời gian chờ đợi lâu (83,3%), chi phí khám, chữa bệnh còn cao (63,3%), và rải rác một số lý do khác như cơ sở vật chất, thái độ phục vụ còn chưa tốt.
Các yếu tố liên quan đến việc sử dụng dịch vụ y tế của người cao tuổi
Bảng 5. Mối liên quan giữa một số yếu tố với việc sử dụng dịch vụ y tế của NCT
Không khám chữa tại CSYT (97) | Khám chữa bệnh tại CSYT (159) | χ2, p | ||||
n | % | n | % | |||
Giới tính | Nam | 63 | 50,8 | 61 | 49,2 | p<0,05 |
Nữ | 34 | 25,8 | 98 | 74,2 | ||
Tuổi | Trên 70 | 68 | 43,0 | 90 | 57,0 | p<0,05 |
60-70 | 29 | 29,6 | 69 | 70,4 | ||
Dân tộc | Thiểu số | 59 | 41,3 | 84 | 58,7 | p>0,05 |
Kinh | 38 | 33,6 | 75 | 66,4 | ||
THCS trở xuống | 78 | 40,0 | 117 | 60,0 | ||
Trình độ học vấn | Từ THPT trở lên | 19 | 31,1 | 42 | 68,9 | p>0,05 |
Kinh tế | Nghèo, cận nghèo | 15 | 46,9 | 17 | 53,1 | p>0,05 |
Đủ ăn | 82 | 36,6 | 142 | 63,4 | ||
Nguồn thu chủ yếu | Nguồn khác | 78 | 32,9 | 159 | 67,1 | p<0,05 |
Lương hưu | 19 | 21,6 | 69 | 78,4 | ||
BHYT | Không có BHYT | 25 | 58,1 | 18 | 41,9 | p<0,05 |
Có BHYT | 72 | 33,8 | 141 | 66,2 | ||
Khoảng cách từ nhà đến CSYT gần nhất | Trên 5km | 45 | 50,6 | 44 | 49,4 | |
Dưới 5km | 52 | 31,1 | 115 | 68,9 | p<0,05 | |
Tình trạng gia đình | Sống riêng | 30 | 53,6 | 26 | 46,4 | p<0,05 |
Sống với con cái | 67 | 34,0 | 130 | 66,0 |
Kết quả Bảng 5 cho thấy: Các yếu tố liên quan có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) tới việc sử dụng dịch vụ y tế của NCT bao gồm: Giới tính, tuổi, bảo hiểm y tế, khoảng cách tới cơ sở y tế, mô hình sống chung hay sống riêng. Khi có bệnh, nữ đi khám nhiều hơn nam, tuổi càng cao thì sử dụng dịch vụ y tế càng nhiều, người có lương hưu có khả năng tiếp cận dịch vụ y tế nhiểu hơn, người có bảo hiểm y tế sử dụng dịch vụ y tế nhiều hơn, sống cùng con cháu thì sử dụng dịch vụ y tế dễ hơn, khoảng cách đến cơ sở y tế gần thì việc sử dụng dịch vụ y tế cũng dễ dàng hơn.
BÀN LUẬN
Thực trạng sử dụng dịch vụ y tế của người cao tuổi
Trong vòng 1 tháng trước thời điểm nghiên cứu tỷ lệ NCT bị ốm, đau chiếm tỷ lệ khá cao với 64%, tỷ lệ này trong nghiên cứu của chúng tôi cao hơn một chút so với nghiên cứu của Đàm Viết Cương (60%), cao hơn tương đối nhiều so với nghiên cứu của Đàm Thị Tuyết (48,96%) và một số nghiên cứu khác2,3,6.
NCT bị bệnh lựa chọn tự điều trị tương đối cao chiếm 37,9%, trong số này thì tất cả đều cho rằng bệnh nhẹ nên không cần thiết phải đi khám chữa, và một số cho rằng chi phí cao, không có bảo hiểm, khoảng cách cơ sở y tế lại xa không có người đưa đi, một phần cũng là do tâm lý ngại phiền con cháu của NCT.
NCT lựa chọn cơ sở y tế công để khám chữa bệnh chiếm tỷ lệ cao với trên 95%, chủ yếu là lựa chọn trạm y tế xã và bệnh viện huyện. Lý do lựa chọn cơ sở y tế được NCT chia sẻ chủ yếu là do đó là nơi đăng ký khám chữa bệnh ban đầu, gần nhà, chi phí phải chăng, do con cháu lựa chọn, hoặc do chuyên môn cán bộ y tế tốt, không phải chờ đợi lâu. Những lý do này cũng tương đồng với các lý do lựa chọn cơ sở y tế trong một số nghiên cứu khác về chủ đề này2,3,6. Tuy nhiên, không phải tất cả NCT đều hài lòng với việc khám chữa bệnh, tỷ lệ chưa thực sự hài lòng chiếm 18,9%, chủ yếu do thuốc trong bảo hiểm không đủ, đặc biệt ở tuyến xã. Còn tuyến trên thì phải chờ đợi lâu, đôi khi thái độ phục vụ còn hạn chế.
Một số yếu tố liên quan đến việc sử dụng dịch vụ y tế của người cao tuổi
Các yếu tố liên quan có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) tới việc sử dụng dịch vụ y tế của người cao tuổi bao gồm: Giới tính, tuổi, bảo hiểm y tế, khoảng cách tới cơ sở y tế, mô hình sống chung hay sống riêng. Các yếu tố liên quan trong nghiên cứu của chúng tôi cũng tương đương với một số nghiên cứu khác, như nghiên cứu trên quy mô lớn của tác giả Giang Thanh Long trên 3324 NCT2,4,6. Điều này cũng cho thấy sự tương đồng trong tâm lý của NCT, các cụ bà thường quan tâm đến sức khoẻ nhiều hơn, và tuổi càng cao thì càng nhiều bệnh tật, nhu cầu chăm sóc y tế càng lớn. Và bảo hiểm y tế cho đối tượng NCT những người có nhu cầu sử dụng dịch vụ y tế nhiều hơn những nhóm tuổi khác là rất cần thiết. Thêm vào đó, nếu cơ sở y tế xa cũng là rào cản cho việc tiếp cận dịch vụ y tế của NCT, nhất là những NCT không sống chung hoặc sống gần với con cháu.
KẾT LUẬN
Thực trạng sử dụng dịch vụ y tế của người cao tuổi: Tỷ lệ người cao tuổi bị ốm đến khám chữa tại cơ sở y tế là 62,1%. Trong đó lựa chọn khám chữa bệnh tại trạm y tế chiếm 52,8%, bệnh viện đa khoa tuyến huyện 23,3%, bệnh viện tuyến Trung ương 13,2%, bệnh viện tuyến tỉnh 6,3%, bệnh viện – phòng khám tư nhân 4,4%. Lý do lựa chọn cơ sở y tế để khám chữa bệnh: chi phí hợp lý (89,3%) và gần nhà (86,8%), ngoài ra còn do cán bộ y tế chuyên môn tốt (76,1%), thái độ nhiệt tình (67,9%) hay cơ sở vật chất tốt (57,2%), không phải chờ đợi (49,1%), do con cháu lựa chọn và đưa đi (72,3%).
Một số yếu tố liên quan đến việc sử dụng dịch vụ y tế của người cao tuổi: Tuổi, giới, nguồn thu nhập chủ yếu, tình trạng bảo hiểm y tế, khoảng cách từ nhà đến cơ sở y tế, và tình trạng sống riêng hay sống chung với con cái (p < 0,05).
References
1. Bộ Y Tế (2016), Đề án chăm sóc sức khoẻ người cao tuổi giai đoạn 2017 – 2025.
2. Đàm Viết Cương và cộng sự (2007), Nghiên cứu đánh giá tình hình chăm sóc sức khoẻ cho người cao tuổi Việt Nam.
3. Phạm Phương Liên và cộng sự (2015), “Sử dụng dịch vụ khám chữa bệnh của người cao tuổi và một số yếu tố liên quan tại quận Hoàng Mai, Hà Nội năm 2015”. Tạp chí Y tế công cộng, tập 1 số 1/2017, tr 44-52.
4. Giang Thanh Long (2020), Người cao tuổi Việt Nam: Sức khoẻ, sử dụng dịch vụ y tế và các vấn đề chính sách, NXB Đại học Kinh tế quốc dân.
5. Tổng cục thống kê (2020), Báo cáo tổng điều tra dân số và nhà ở 01/04/2019.
6. Đàm Thị Tuyết và cộng sự (2013), “Thực trạng tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khoẻ của người cao tuổi tại xã Lâu Thượng, huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên”, Tạp chí Y học thực hành (866) – số 4/2013, tr 52-55.
7. Uỷ ban quốc gia về người cao tuổi (2012), Báo cáo điều tra quốc gia về người cao tuổi VNAS.
8. UNFPA and HelpAge International (2012), Ageing in the Twenty-First Century – A Celebration and A Challenge.

This work is licensed under a Creative Commons Attribution-NonCommercial-NoDerivatives 4.0 International License.
Copyright (c) 2023 Journal of Science and Technology in Medicine and Pharmacy